Chúng ta thường dùng chỉnh chu nhưng từ này hầu như lại không có trong các cuốn từ điển tiếng Việt. Từ được ghi nhận là chỉn chu. Vậy, từ đâu mà có sự nhầm lẫn này?
Theo chúng tôi, có hai nguyên nhân chính. Về âm, chỉnh chu và chỉn chu có cách phát âm rất gần (ở một số địa phương, phát âm như nhau); hơn nữa, chỉnh chu dễ phát âm và thuận tai hơn so với chỉn chu. Về nghĩa, yếu tố chỉnh gợi liên tưởng đến các từ chỉnh đốn, chỉnh tề, hoàn chỉnh… tạo cảm giác vừa dễ hiểu vừa phù hợp với yếu tố chu mang nghĩa trong các từ chu đáo, chu tất, chu toàn… và nghĩa chung của cả từ. Trong khi đó, với người Việt hiện nay, chỉn gần như vô nghĩa. Chọn từ dễ phát âm, dễ hiểu hơn là xu hướng tất yếu.
Chỉn khó hiểu với chúng ta ngày nay là bởi đây là một từ cổ. Nó xuất hiện muộn nhất trong tiếng Việt cũng vào đầu thế kỉ XV vì nó đã có mặt trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi (1380-1442). Theo Từ điển từ Việt cổ của Nguyễn Ngọc San - Đinh Văn Thiện (2001), chỉn có nghĩa “chỉ, quả thực, vốn, thật”. Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (1997) ghi nhận chỉn là một từ cũ và giảng là “vốn, vẫn”.
Chu là một yếu tố Việt gốc Hán. Trong tiếng Hán, chu thuộc bộ khẩu, có các nghĩa “vòng quanh, đủ, vẹn, toàn thể”. Vào tiếng Việt, chu là một hình vị độc lập, mang nghĩa “đạt mức yêu cầu, có thể làm cho yên tâm, hài lòng; ổn” (Từ điển tiếng Việt, sđd, tr.167). Như vậy, chỉn chu nghĩa gốc là “rất đạt, thật ổn”.
Cần nói thêm, theo học giả An Chi, chỉn cũng là một từ Việt gốc Hán. Trong bài “Gốc và nghĩa của từ chỉn”, ông cho rằng từ này bắt nguồn từ chữ chân (bộ mục, nghĩa “thật, thực là”) trong tiếng Hán. Mối quan hệ giữa hai nguyên âm /â/ và /i/ ngoài chân ~ chỉn, ta còn gặp trong nhiều trường hợp: ấn ~ in, cấp ~ kíp, cập ~ kịp, tâm ~ tim, tầm ~ tìm, thẩm ~ thím…
PHẠM TUẤN VŨ
Đăng trên mục "Chữ & nghĩa", báo Bình Định ngày 10.6.2020
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét